Lịch sử Đế_quốc_Đông_La_Mã

Bối cảnh

Lễ rửa tội Constantinus, bích họa do các học trò của Raffaello thực hiện (1520–1524, Điện Tông Tòa, thành phố Vatican). Eusebius của Caesarea ghi lại rằng (giống như chuyện thường xảy ra với người cải sang Kitô giáo thời sơ khai), Constantine chỉ nhận phép rửa tội lúc hấp hối.[21]

Với quân đội thiện chiến, La Mã đã chinh phục thành công nhiều vùng lãnh thổ bao gồm toàn bộ khu vực Địa Trung Hải và các khu vực ven biển ở phía tây nam châu Âu và Bắc Phi. Những vùng lãnh thổ này là nơi có nhiều nhóm văn hóa khác nhau, từ nguyên thủy tới trình độ rất tinh vi. Nói chung, các tỉnh phía đông Địa Trung Hải có mức độ đô thị hoá và xã hội phát triển hơn so với phía tây, vì trước đây đã được thống nhất dưới thời đế chế Macedonia và đã được Hy Lạp hóa do ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp.[22]

Sự phân chia Đế chế La Mã

Năm 293, Diocletianus thiết lập một cơ cấu hành chính mới (gọi là Tứ đầu chế), để trấn an tình hình các miền đất đang lâm nguy của Đế chế. Ông liên kết với một đồng hoàng đế (Augustus) - người sẽ phải kiếm một đồng sự trẻ tuổi mà phong làm Caesar, để cùng nhau trị vì và sau này kế tục vị cộng sự cao cấp hơn (ở đây chỉ Diocletianus). Tuy nhiên, chính quyền Tứ đầu chế sụp đổ vào năm 313 và vài năm sau Constantinus I trở thành Augustus duy nhất, thống nhất hai nửa của Đế chế.[23]

Năm 330, Constantinus I dời đô về thành Constantinopolis, tại đây ông đã xây nên một "Roma thứ hai" trên địa điểm của Byzantium, một thành phố nằm vắt ngang trên các tuyến đường thương mại giữa phương Đông và phương Tây. Constantinus I đã tiến hành những cải cách quan trọng về quân sự, tiền tệ, các tổ chức dân sự và tôn giáo của đế quốc.[24]

Dưới thời Contantinus, Kitô giáo mặc dù không được công nhận là quốc giáo nhưng lại được hưởng nhiều ưu đãi, bởi vì hoàng đế đã ban cho tôn giáo này nhiều đặc quyền rộng rãi. Việc ông cho triệu tập Thượng Hội đồng Giám mục ArlesHội đồng Nicaea đã cho thấy quyết tâm hợp nhất giáo hội của ông, đồng thời khẳng định sự lãnh đạo của ông với Giáo hội.[25] Năm 395,Theodosius I lại chia đôi đế quốc ra cho hai con trai của mình: Arcadius ở phía đông và Honorius ở phía tây. Trong các thế kỷ thứ III và thứ IV, phần phía đông đế chế đã không phải đối mặt với phần lớn các bộc tộc đang tràn ngập khắp Châu Âu, một phần là nhờ một nền văn hóa thành thị được phát triển từ rất sớm và có các nguồn lực tài chính ổn định, cho phép đế quốc có tiền để trả cho các khoản cống phẩm để xoa dịu những kẻ xâm lược và kinh phí duy trì các đội lính đánh thuê. Nhờ đó, Theodosius II có thể tập trung vào hệ thống hóa pháp luật La Mã, củng cố các bức tường thành của Contantinopolis.Tuy nhiên, để đẩy lùi được người Hun,Theodosius đã phải trả các khoản cống phẩm lớn hàng năm cho thủ lĩnh Attila.[26] Hoàng đế Marcianus sau đó đã từ chối các khoản tiền cống tốm kém nhưng lúc náy Attila đã chuyển hướng sự chú ý của mình sang nửa phía tây của đế quốc. Sau khi Attila qua đời, đế quốc Hun sụp đổ, và nhiều người Hun được thuê làm lính đánh thuê cho Constantinopolis.[27]

Đế quốc dưới thời trị vì của Leo I (phía đông) và Majorianus (phía tây) vào những năm 460. Chỉ chưa đầy hai thập kỷ sau, đế chế phía tây đã sụp đổ trong khi đế chế phía đông vẫn yên bình cho tới công cuộc giành lại các tỉnh miền tây của Justinian I

Đế quốc phía Tây sụp đổ

Sau khi Attila qua đời, Đông La Mã được hưởng một thời gian hòa bình lâu dài trong khi Tây La Mã ngày càng suy kiệt trước quân man rợ di cư và cuối cùng sụp đổ vào năm 476, khi vị tướng đánh thuê người German Odoacer cướp bóc thành Roma và phế truất Romulus Augustus, vị hoàng đế Tây La Mã cuối cùng.[28] Năm 480, hoàng đế Zeno tuyên bố mình là hoàng đế duy nhất của La Mã và Odoacer chỉ là người cai trị Ý, dưới quyền hoàng đế.[28] Dẫu vậy, Odoacer sau đó lại ủng hộ cho một cuộc nổi loạn chống lại Hoàng đế. Zeno đáp trả bằng cách đàm phán với những kẻ xâm lược người Ostrogoth, lúc này đã định cư ở Moesia, và thuyết phục vị vua của người Goth là Theodoric khởi hành tới Ý với tư cách là magister militum per Italiam, nhằm mục đích lật đổ Odoacer. Sau khi đánh bại Odoacer trong năm 493, Theodoric đã cai trị đất Ý theo ý mình, mặc dù ông đã không bao giờ được các vị hoàng đế phía đông công nhận là một vị "vua" (rex).[29]

Năm 491, Anastasius I, một quan chức chính quyền già cả có gốc gác La Mã, đã trở thành hoàng đế, nhưng ông chỉ hoàn toàn cai trị đế quốc vào năm 497, sau khi quân đội của ông dẹp tan các thế lực chống đối.[30] Anastasius đã chứng tỏ mình là một nhà cải cách nhiệt huyết và có tài lãnh đạo. Ông hoàn thiện hệ thống pháp luật từ thời Constantinus, dứt khoát sử dụng đồng tiền follis vào các giao dịch hàng ngày.[31] Khi Anastasius qua đời năm 518, ông để lại trong kho bạc đế chế một khoản tiền khổng lồ 320.000 lbs (145,150 kg) vàng.[32]

Cuộc tái chiếm các tỉnh miền Tây

Hoàng đế Đông La Mã Justinianus I

Justinianus I, vốn là con trai của một nông dân Illyria, có lẽ đã tiếp nhận quyền lực thực tế ngay trong triều đại cai trị của người chú, Justinus I (518-527).[33] Ông lên ngôi năm 527 và tiến hành các cố gắng giành lại các lãnh thổ đã mất. Năm 532, nhằm đảm bảo ổn định cho biên giới phía đông,ông đã ký một hiệp ước hòa bình với vua Khosrau I của Ba Tư, đồng ý trả một khoản cống phẩm hàng năm cho vương triều Sassanid. Trong cùng năm đó, ông trấn áp được cuộc khởi nghĩa Nika, củng cố được quyền lực của mình với cái giá của hơn 30.000 mạng người.[34]

Năm 529, một ủy ban 10 người do Ioannes xứ Cappadocia đứng đầu đã sửa đổi luật pháp La Mã và hệ thống hóa lại các bộ luật. Năm 534, ban hành Pháp điển Dân sự hay còn gọi là Luật Justinianus I, hệ thống pháp luật cơ bản được sử dụng trong hầu hết các thời kỳ còn lại của đế chế Đông La Mã.[35]

Cuộc tái chiếm miền tây đã bắt đầu từ năm 533, khi Justinianus I phái tướng quân Belisarius đem quân đi đòi lại các tỉnh cũ ở Bắc Phi đã bị người Vandal chiếm từ năm 429 và đặt kinh đô của họ ở thành Carthage.[36] Thành công đến một cách dễ dàng tới ngạc nhiên, nhưng phải tới năm 548 thì các bộ lạc lớn ở địa phương mới chịu thần phục.[37] Trong khi đó ở Ý, vương quốc Ostrogoth đang bị chia rẽ nội bộ, sau cái chết của Theodoric cùng với cháu trai và người kế vị của ông, Athalaric và con gái ông, Amalasuntha, khiến cho kẻ mưu sát Theodahad lên nắm quyền nhưng suy yếu. Năm 535, một đội quân nhỏ của Đông La Mã đã dễ dàng chiếm được Sicilia nhưng người Goth đã kháng cự mãnh liệt, và phải tới năm 540, chiến thắng mới đến với quân Đông La Mã, khi tướng Belisarius chiếm được Ravenna, sau khi thành công trong cuộc vây hãm thành Roma và Napolia.[38] Trong năm 535-536, Theodahad đã phái Đức Giáo hoàng Agapetus I đến Constantinople nhằm thỉnh cầu quân Byzantine rút khỏi Sicilia, Dalmatia, và Ý. Mặc dù Agapetus thất bại trong nhiệm vụ của mình để có thể ký kết một hiệp ước hòa bình với Justinianus, ông ta đã thành công trong việc đả kích Thượng Phụ Anthimus I của Constantinople theo thuyết Đơn Thần, bất chấp sự ủng hộ và bảo vệ của hoàng hậu Theodora..[39]

Người Ostrogoth đã nhanh chóng tập hợp dưới sự chỉ huy của vua Totila và giành lại Roma vào năm 546. Belisarius được cử tới Ý năm 544 nhưng ông lại bị triệu về Constantinopolis năm 549. Với sự xuất hiện của thái giám người Armenia Narses và 35.000 quân đã đánh dấu chấm hết cho vương quốc của người Ostrogoth. Vua Totila bị đánh cho đại bại trong chận trận Taginae và người kế vị của ông ta, Teia, cũng bị đánh bại trong trận Mons Lactarius (tháng 10 năm 552). Mặc dù một vài đơn vị đồn trú người Goth còn lại vẫn tiếp tục kháng cự và có thêm hai cuộc xâm lược từ người Frank và Alamanni, nhưng về cơ bản đế chế Đông La Mã đã hoàn thành công cuộc chiếm lại các tỉnh đã mất ở Ý.[39] Năm 551, Athanagild, một quý tộc của vương triều Visigoth ở Hispania, đã cầu xin sự giúp đỡ của Justinianus trong một cuộc nổi loạn chống lại đức vua của ông ta, và vị hoàng đế phái một đạo quân dưới quyền Liberius, một vị tướng quân đội tài giỏi. Đế quốc đã chiếm được vào một dải nhỏ ven bờ biển của bán đảo Iberia cho đến tận triều đại của Heraclius.[40]Ở biên giới phía đông, các cuộc chiến La Mã - Ba Tư vẫn tiếp tục cho đến năm 561, khi các sứ giả của Justinianus và Khosrau đồng ý một hiệp ước hòa bình 50 năm.[41] Cuối cùng Justinianus đã đẩy lùi hầu hết những cuộc tấn công xâm lấn của các bộ tộc di cư bằng hàng loạt các chiến thắng trong những năm 550, trừ các cuộc xâm nhập lặp đi lặp lại của người SlavGepid. Năm 559, đế quốc phải đối mặt với cuộc xâm nhập lớn của người KutrigurSclaveni.[42] Justinianus liền gọi tướng Belisarius đang nghỉ hưu quay lại quân đội và đánh bại mối đe dọa mới từ người Hung. Việc tăng cường củng cố các hạm đội dọc sông Donau khiến quân Kutrigur phải rút lui và chấp nhận một hiệp ước được đi lại an toàn trên sông Donau.[43]

Đế quốc dưới thời Mauricius những năm 600 SCN, trước khi ông và gia đình bị sát hại trong cuộc chính biến hai năm sau đó

Văn hóa truyền thống La Mã-Hi Lạp vẫn còn nhiều ảnh hưởng ở Đông La Mã trong thế kỷ thứ VI với nhiều nhà triết học nổi bật như Ioannes Philoponus. Nhưng triết học và văn hóa Kitô giáo dần chiếm ưu thế và thay thế các nền văn hóa cũ. Đại thánh đường Thánh Xôphia đã được xây dựng thay thế cho một nhà thờ cũ đã bị phá hủy trong cuộc bạo loạn Nika.[44] Nhưng hàng loạt các dịch bệnh và đói kém đã tấn công đế quốc, giết hại nhiều sinh mạng dân chúng và góp phần làm suy sụp đế quốc.

Sau khi Justinianus qua đời năm 565, vị hoàng đế kế tục ông, Justinus II đã từ chối các khoản triều cống cho Ba Tư. Trong khi đó, người Lombard gốc Đức tràn vào Ý, tới cuối thế kỷ chỉ còn một phần ba đất Ý nằm dưới sự kiểm soát của đế quốc. Vị Hoàng đế kế tiếp, Tiberius II đã chọn cách ban tặng tiền bạc cho người Avar và tiếp tục cuộc chiến với người Ba Tư. Dẫu cho viên tướng của Tiberius, Mauricius đã tiến hành một chiến dịch hiệu quả ở phía đông, nhưng các khoản trợ cập lại không ngăn giữ được người Avar. Họ đã đánh chiếm được pháo đài Sirmium năm 582 trong khi người Slav bắt đầu xâm nhập bờ nam sông Donau. Cùng năm đó, Mauricius thành công trong việc giành ngôi hoàng đế với tư cách là con rể của Tiberius II và can thiệp vào cuộc nội chiến ngai vàng ở Ba Tư. Với sự trợ giúp của Mauricius, Khosrau II đã giành được ngai vàng và củng cố liên minh qua kết hôn với con gái của Mauricius. Đồng thời hiệp ước của Mauricius với người con rể mới của ông không những đã giúp mở rộng lãnh thổ phía đông của đế quốc mà còn giúp cho Mauricius có đủ sức mạnh để tập trung vào vấn đề Balkan. Tới năm 602, một loạt các chiến dịch thành công đả đẩy lùi người Avar và Slav về phía bên kia bờ sông Donau.[45]

Sự mất mát về lãnh thổ

Nhà Heraclius

Năm 602, một viên tướng của Mauricius là Phocas đã ám sát Mauricius và giành lấy ngai vàng Đông La Mã. Biết tin nhạc phụ bị sát hại, Khosrau II liền vin cớ dấy binh báo thù, đánh chiếm tỉnh Lưỡng Hà của La Mã.[46] Ở Constantinopolis, Phocas, một hoàng đế vốn không được lòng dân dần trở thành cái gai trong mắt những người đứng đầu Nghị Viện. Năm 610, một viên tướng từ CarthageHeraclius đã đem quân vượt biển tới kinh thành với một biểu tượng gắn ở mũi tàu, và phế truất Phocas.[47] Sau cuộc chính biến của Heraclius, quân Sassanid đã tiến sâu vào bán đảo Tiểu Á, đồng thời chiếm cả DamasJerusalem rồi cướp đi cây thánh giá linh thiêng để đem về thành Ctesiphon.[48] Hoàng đế Heraclius đã tiến hành phản kích lại đế chế Ba Tư trong một cuộc chiến mang màu sắc Thánh chiến và sử dụng các biểu ngữ Kitô giáo như một tiêu chuẩn trong quân đội.[49] Với sự lãnh đạo xuất sắc của Heraclius, quân Đông La Mã đã giành lại các vùng đất đã mất trải dài từ Cilicia đến Armenia, và đang hướng tới đô thành Ba Tư.

Nhưng mối đe dọa từ nhà Sassanid vẫn còn đó. Nhân lúc Heraclius đang đem đại quân đi chinh chiến sa trường, Khosrau II đã cử tướng Sharbaraz đem 50.000 quân lính được động viên ở Lưỡng Hà vượt qua Anatolia đến đóng trại ở Chalcedon, gần sát Constantinopolis nhằm liên hợp với quân Avar và Slav chiếm thành.[50] Ngày 26 tháng 6 năm 626, 80.000 quân Avar và Slav bủa vây mọi cửa thành của Constantinopolis còn ở bên kia Bosphorus, 50.000 quân Ba Tư đang gấp rút đóng tàu chiến nhằm tấn công đô thành từ phía biển. Trong thành Constantinopolis lúc này có 12.000 quân do anh trai của Heraclius chỉ huy cùng sự giúp đỡ về nhuệ khí từ Thượng phụ Sergius.[51] Nhờ các bức tường thành chắc chắn, quân Đông La Mã đã đẩy lùi các đợt tiến công của liên quân Avar- Slav. Hạm đội của Ba Tư cũng bị hạm đội của Đông La Mã đập tan trên biển và tướng Sharbaraz cũng đã tử trận. Đô thành Constantinopolis được bảo toàn. Nhờ chiến thắng trong cuộc bao vây Constantinopolis năm 626, Heraclius đã đè bẹp quân Sassanid ở trận Nineveh một năm sau đó, rồi mang cây thánh giá thiêng trở lại Jerusalem năm 629.[52] Qua đó đã giáng một đòn hủy diệt cho đế quốc từng đối địch với La Mã trong hàng thế kỷ qua. Tuy nhiên, cuộc chiến đã làm kiệt quệ cả đế quốc Đông La Mã và Sassanid, khiến cho cả hai dễ bị tổn thương trước sự trỗi dậy của người Hồi Giáo Ả Rập chỉ vài năm sau đó. Đế quốc đã phải hứng chịu một thất bại nặng nề ở trận Yarmouk năm 636, sau khi thành Ctesiphon thất thủ năm 634.[53]

Đông La Mã vào năm 650 dưới thời Konstans II.

Người Ả Rập Hồi Giáo với chỗ đứng vững chắc ở LevantSyria, đã thường xuyên gửi quân tấn công vào Tiểu Á và tiến hành cuộc vây hãm Constantinopolis năm 674-678.[54] Các hạm đội Ả Rập sau đó đã bị đẩy lùi bởi vũ khí tối thượng nhất của quân Đông La Mã là hỏa khí Lửa Hy Lạp và một thỏa ước đình chiến 30 năm đã được thông qua giữa đế quốc và nhà Umayyad. Tuy nhiên các cuộc xung đột ở Anatolia vẫn liên tục xảy ra, gây ra sự suy tàn cho nền văn hóa đô thị cổ điển, buộc dân chúng phải di tản vào sống trong các thành phố có tường bao quanh hoặc các pháo đài gần đấy.[55] Ngay cả kinh thành Constantinopolis cũng suy giảm dân số từ 500.000 xuống còn 70.000 người, và nhiều khu vực trong đô thành bị bỏ hoang hoặc mục nát. Thành phố còn mất cả các chuyến tàu chở lúa mì và ngũ cốc sau khi người Ả Rập đánh chiếm Ai Cập, khiến không còn lúa mì trợ cấp cho dân chúng nữa.[56] Để đối phó, các tỉnh của đế quốc ở Anatolia được phân thành các khu vực tự trị bán quân sự, được quản lý trực tiếp từ triều đình. Đây là cơ sở cho hệ thống hành chính địa phương của Đông La Mã cho đến năm 1204. Việc rút phần lớn lực lượng ở Balkan để tham chiến với người Ba Tư và người Ả Rập sau đó, đã tạo điều kiện cho người Slav tràn vào bán đảo.[56] Những năm 670, người Bulgar lui xuống phía nam bởi sự xuất hiện của người Khazar và năm 680, quân Đông La Mã được gửi tới để giải tán các khu định cư của người Bulgars bị đánh bại.[57] Năm sau, Costantinos IV đã ký một hiệp ước với vị Khan Asparukh của người Bulgar, và một nhà nước Bulgaria được thành lập, dưới sự bảo hộ của triều đình Đông La Mã. Trong hai năm 687- 688, hoàng đế Ioustinianos II, đã dẫn đầu một cuộc viễn chinh chống lại người Bulgar và Slav với những thắng lợi đáng kể, mặc dù thực tế là ông giao chiến với quân địch ở TharciaMacedonia, đã cho thấy sức mạnh của Đông La Mã đã không còn ảnh hưởng ở các vùng phía bắc bán đảo Balkan.[58]

Ioustinianos II cố gắng phá vỡ quyền lực của giới quý tộc thành thị bằng cách cho tăng thuế và bổ nhiệm người ngoài vào làm trong triều đình. Ông bị lật đổ năm 695, và phải bỏ chạy đến tị nạn ở chỗ Khan Tervel của Bulgaria. Năm 705, với sự hỗ trợ từ quân lính của Khan, Ioustinianos II đã giành lại ngai vàng và tiến hành trả thù những người từng lật đổ ông. Cuối cùng vào năm 711, các quý tộc thành thị một lần nữa tiến hành đảo chính, lật đổ ông và triều đại nhà Heraclius chính thức kết thúc.[59]

Nhà Isauria

Hoàng đế Leon III xứ Isauria sau khi lên ngôi đã lãnh đạo quân dân Đông La Mã giành thắng lợi trong cuộc vây hãm Constantinopolis năm 717- 718 bởi người Arab. Người kế vị của ông, Kōnstantinos V đã giành được các chiến thắng đáng kể ở phía bắc xứ Syria, và làm suy yếu quyền lực của người Bulgar. Sau cuộc nổi dậy của Thomas người Slav, quân Ả Rập đã quay trở lại và đánh chiếm đảo Crete.[60] Sicilia cũng sụp đổ trước người Ả Rập cho đến khi tướng quân Petronas đánh bại tiểu vương Umar al-Aqta trong trận Lalakaon. Các mối đe dọa từ người Bulgaria cũng đã xuất hiện dưới thời của Hãn Krum, nhưng sau đó một hiệp ước hòa bình đã được ký kết giưa Leōn V với con trai của Krum là Omurtag vào năm 815- 816.[61]

Thế kỷ thứ VIII và IX cũng đã bị chi phối bởi các tranh cãi và chia rẽ tôn giáo xung quanh phong trào bài trừ ảnh tượng. Các biểu tượng đã bị cấm theo chiếu chỉ của hoàng đế Leo và Constantine, dẫn đến cuộc khởi nghĩa của những người thờ thánh tượng trên toàn đế quốc. Sau những nỗ lực của nữ hoàng Irene, hội đồng Nicaea lần thứ hai đã được tổ chức trong năm 787 và khẳng định rằng các biểu tượng có thể được tôn kính nhưng không được tôn thờ. Irene được cho là đã cố gắng thương lượng một cuộc hôn nhân giữa bà và Charlemagne, nhưng theo thánh Theophanes, mưu đồ này đã bị phá hoại bởi Aetios, một trong những sủng thần của bà.[62] Trong giai đoạn đầu thế kỷ thứ IX, Leo V đã khơi dậy lại chính sách bài trừ ảnh tượng, nhưng năm 843, hoàng hậu Theodora đã khôi phục lại việc tôn kính các biểu tượng với sự giúp đỡ của Thượng Phụ Methodios [63].

Sự hồi sinh dưới thời của nhà Makedonia (867-1025)

Đế quốc Đông La Mã năm 867

Việc Basíleios I lên ngôi hoàng đế vào năm 867 đã đánh dấu cho sự khởi đầu của nhà Makedonia, vương triều sẽ cai trị đế quốc trong hơn hai thế kỷ rưỡi tiếp theo. Vương triều này có nhiều hoàng đế tài giỏi nhất trong lịch sử của Đông La Mã và là giai đoạn phục hồi và phát triển đến cực thịnh. Đế quốc đã chuyển từ thế thủ sang thế công và tái chiếm lại các lãnh thổ đã bị mất. Ngoài việc tái khẳng định sức mạnh quân đội và quyền lực hoàng gia, đây còn là thời gian nền văn hóa Đông La Mã được hồi sinh trên mọi lĩnh vực. Một nỗ lực để khôi phục lại sức mạnh và vinh quang trước quân Ả Rập và Slav, và nhiều học giả đã gọi đây là "Thời đại hoàng kim" của đế chế Đông La Mã.[64] Cho dù diện tích của đế chế có bị thu hẹp hơn nhiều so với thời của Justinianius I, nhưng đế chế đã phục hồi cả về quân sự lẫn văn hóa hay kinh tế, và các lãnh thổ đã không còn quá tách biệt như trước nữa.

Chiến tranh chống lại quân Ả Rập

Tướng quân Leōn Phokas đánh bại quân Ả Rập trong trận chiến Andrassos năm 960

Các cuộc tấn công của quân Ả Rập vào bờ biển Dalmatia đã bị đẩy lùi trong những năm đầu dưới thời Basileos I và khu vực này lại yên bình trở lại, cho phép các nhà truyền giáo Đông La Mã cải đạo người Serbia sang Đạo Chính Thống.[65] Tuy nhiên nỗ lực giành lại Đảo Malta cuối cùng đã kết thúc thảm khốc khi người Ả Rập với sự ủng hộ của dân địa phương, đã tàn sát đội quân đồn trú của Đông La Mã. Trái lại, địa vị của Đông La Mã ở miền nam nước Ý dần được củng cố khi quân Đông La Mã giành lại được Bari năm 873,[65] giúp đế chế tiếp tục kiểm soát hầu hết miền nam Ý trong vòng 200 năm tiếp theo. Quan trọng hơn hết là ở mặt trận phía đông, tuyến phòng thủ của đế chế đã được củng cố vững chắc và quân Đông La Mã tiến hành các cuộc viễn chinh vào lãnh thổ của kẻ thù.[66] Người Paulicia bị đánh bại và kinh đô Tephrike đã bị chiếm đóng, trong khi chiến dịch chống lại các khalip nhà Abbas đã bắt đầu với việc giành lại thành Samosata.[65]

Dưới triều đại người con trai của Mikael và cũng là người kế vị ông, Leōn VI Khôn ngoan, các cuộc tấn công vào đế quốc Abbas vẫn được tiếp tục. Tuy nhiên, Sicilia lại rơi vào tay quân Ả Rập năm 902 và chỉ hai năm sau đó, Thessaloniki, thành phố quan trọng thứ hai của đế chế đã bị một hạm đội Arab cướp phá. Hải quân nhanh chóng được tăng cường lại. Đảo Síp, vốn bị người Ả Rập chiếm đóng từ thế kỷ thứ VII, đã được thu hồi và một hạm đội Đông La Mã đã tấn công vào cảng Laodicea ở Syria. Mặc dù vậy, quân Đông La Mã cũng bị tổn thất nặng nề khi họ cố gắng chiếm lại đảo Crete năm 911.[67]

Nhân lúc Bulgaria đang bị suy yếu bởi cái chết của Sa hoàng Simeon I năm 927, quân Đông La Mã liền tập trung về mặt trận phía đông. Năm 934, Melitene vĩnh viễn được chiếm lại.[68] Năm 943, danh tướng Ioánnis Kourkouas đã giành được một số thắng lợi quan trọng, mà đỉnh điểm là cuộc tái chiếm thành Edessa. Nó còn đặc biệt nổi tiếng với việc đem trở về thành Constantinopolis thánh vật Mandylion, mà có mang bức chân dung của Jesus trên nó.[69]

Những vị Hoàng đế - chiến binh như Nikephoros II Phokas (cai trị từ năm 963–969) và Iōannēs I Tzimiskes (969–976) bành trướng lãnh thổ tới tận vùng Syria và đánh bại các tiểu vương Hồi Giáo ở vùng Tây Bắc Iraq. Thành phố Aleppo bị Nikephoros chinh phục năm 962 và sang năm sau người Ả Rập hoàn toàn bị tống khứ khỏi đảo Crete. Việc chinh phục đảo Crete đã thủ tiêu hoàn toàn nguy cơ vùng biển Aegea bị người Ả Rập cướp phá và giúp kinh tế ở lục địa Hy Lạp được hưng khởi trở lại. Đảo Síp được thu hồi vào năm 965 và sự nghiệp của Nikephoros đạt đến đỉnh cao vào năm 969 khi ông thu hồi Antioch và sáp nhập nó làm một tỉnh của đế quốc.[70] Người kế vị của Nikephoros, Ioannes I tiếp tục đánh chiếm Damascus, Beirut, Acre, Sidon, CaesareaTiberias, mở rộng thế lực của đế quốc tới gần sát Jerusalem (dù thế lực của đế quốc Ả Rập Hồi giáo ở Iraq và Ai Cập vẫn còn nguyên vẹn).[71] Sau khi đánh bại người Bulgaria, hoàng đế Basileios II tiếp tục dự tính tấn công đảo Sicillia, thành trì cuối cùng của người Ả Rập trên các lãnh địa cũ của đế quốc, tuy nhiên ông qua đời vào năm 1025 mà không kịp thực hiện dự định của mình. Các đợt tấn công sau đó cũng chỉ thu hồi lại vùng duyên hải phía đông của đảo. Tuy nhiên, đến thời điểm Basileios II qua đời, đế quốc Đông La Mã đã trải dài từ eo biển Messina ở phía tây tới dòng sông Euphrates ở phía đông, từ sông Donau ở phía bắc cho tới Syria ở phía nam.[72]

Chiến tranh chống lại người Bulgaria

Hoàng Đế Basileos II (khoảng năm 976–1025).

Các cuộc tranh đấu ảnh hưởng giữa Constantinopolis và Vatican vẫn tiếp tục trong suốt triều đại Makedonia, làm thúc đẩy câu hỏi về việc ai sẽ kiểm soát những người Bulgaria vừa mới được cải đạo sang Kitô Giáo. Sau khi kết thúc hiệp ước hòa bình kéo dài 80 năm, Sa hoàng Simeon của Bulgaria đã đem quân tràn vào đế quốc năm 894, nhưng ông ta nhanh chóng bị đẩy lùi khi quân Đông La Mã dùng hạm đội vượt qua Biển Đen để tấn công vào hậu phương của quân Bulgaria và kêu gọi sự trợ giúp từ người Hunggari.[73] Tuy nhiên, quân Đông La Mã đã thất trận ở trận Boulgarophygon vào năm 896 và phải chấp nhận nộp cống hàng năm cho Bulgaria. Khi Leōn VI qua đời năm 912, nhân lúc triều đình Constantinopolis đang hỗn loạn, Simeon nhanh chóng đem một đội quân lớn tiến về kinh thành của đế quốc. Mặc dù các bức tường thành Constantinopolis là bất khả xâm phạm,[74] triều đình Đông La Mã đã mời Simeon vào trong thành phố, nơi ông được trao vương miện hoàng đế Bulgaria và hoàng đế Kōnstantinos VII đã kết hôn với một cô con gái của ông ta. Tuy nhiên sau đó một cuộc nổi loạn lớn ở Constantinopolis đã phá hỏng kế hoạch của Simeon, thế là ông ta lại xâm lược Đông La Mã và đánh chiếm Adrianople.[75] Bây giờ thì Đông La Mã đứng trước nguy cơ diệt vong khi phải đối mặt với một thế lực Kitô giáo hùng mạnh đang cách Constantinopolis chỉ vài ngày đường[64] cũng như đang phải đối phó với cả hai kẻ thù ở phía bắc lẫn phía nam.[67]

Không lâu sau đó, một đội quân viễn chinh do Leōn PhokasRomanos I Lekapenos chỉ huy khi tiến vào Bulgaria đã bị đánh tan tác trong Trận Achelous (917), thế là trong năm sau quân Bulgaria mặc sức tàn phá vùng Bắc Hy Lạp. Adrianople lại bị cướp phá vào năm 923 và năm 924, quân Bulgaria vây hãm Constantinopolis. Tuy nhiên Simeon qua đời một cách đột ngột vào năm 927 và kéo theo đó là sự suy sụp của Bulgaria. Nhờ đó, Bulgaria và Đông La Mã có một thời gian yên bình khá dài, đủ để cho Đông La Mã tập trung lực lượng đánh bại người Ả Rập.[76] Năm 968, quân đội Nga Kiev do Sviatoslav I lãnh đạo đã tấn công và tàn phá Bulgaria, tuy nhiên 3 năm sau hoàng đế Iōannēs I Tzimiskēs đã đánh bại Sviatoslav và sáp nhập Đông Bulgaria.[77]

Đông La Mã dưới thời Basileos II.

Người Bulgaria trong triều đại Cometopuli tiếp tục chống cự, nhưng hoàng đế Basileos II (976-1025) đã coi việc đánh bại Bulgaria là mục tiêu lớn nhất trong triều đại của mình.[78] Cuộc tấn công đầu tiên của Basil II kết thúc trong thảm bại tại trận Cổng Trajan. Những năm tiếp theo, trong lúc Basileos II bận đương đầu với các cuộc nổi loạn ở Anatolia, quân Bulgaria tiếp túc mở rộng sự kiểm soát ở bán đảo Balkan. Chiến tranh đã kéo dài tới gần 20 năm. Quân Bulgaria đã bị tổn thất nặng nề ở SpercheiosSkopje, và các chiến dịch hàng năm của Basil II đã chinh phục dần dần các thành trì của Bulgaria. Cuối cùng, quân Bulgaria đã thảm bại ở trận Kleidion vào năm 1014.[78] Đa phần quân Bulgaria bị bắt sống, để trừng phạt họ cũng như để làm suy yếu kẻ địch dám uy hiếp mình, Basil Đệ Nhị đã ra lệnh cứ 100 lính thì chọc mù mắt 99 người và để cho người thứ 100 một con mắt, để người lính chột đó có thể dẫn được 99 người lính mù về quê hương.. Nhìn thấy đội quân một thời hùng mạnh của mình như thế, Sa hoàng Samuil đã chết vì sốc nặng. Thành trì cuối cùng của Bulgaria sụp đổ vào năm 1018, và Bulgaria đã trở thành một phần của đế quốc Đông La Mã.[78] Chiến thắng này đã khôi phục đường biên giới sông Donau, vốn bị mất từ thời nhà Heraclius còn cai trị.[72]

Quan hệ với nhà nước Nga Kiev

Rus' trên các bức tường của Constantinopolis (860).

Bắt đầu từ những năm 850, Đông La Mã đã phát triển một mối quan hệ phức tạp với một công quốc mới nổi là Rus Kiev, trỗi dậy ở phía bắc Biển Đen.[79] Mối quan hệ này nhanh chóng có ảnh hưởng lâu dài trong lịch sử của những người Slav Đông Âu và đế quốc trở thành đối tác thương mại chính với Kiev. Người Rus' đã tấn công Constantniopolis năm 860, và cướp bóc các vùng ngoại ô của thành phố. Năm 941, họ đổ bộ lên bờ biển ở Tiểu Á nhưng nhanh chóng bị đánh tan, cho thấy các tiến bộ trong hàng phòng thủ xung quanh Constantinopolis sau năm 907, khi mà chỉ có ngoại giao mới có thể đẩy lùi quân xâm lược. Basileos II không thể bỏ qua cường quốc Rus' mới nổi kia, và như cha mình, ông sử dụng lá bài tôn giáo như là một cộng cụ trong chính trị[80]. Mối quan hệ trở nên nồng ấm hơn khi mà Vladimir Vĩ đại của Kiev kết hôn cùng với công chúa Anna Porphyrogeneta của Đông La Mã năm 988, và sau đó người Rus Kiev đã cải sang Chính thống giáo.[79] Nền văn hóa Đông La Mã đước mở mang xa về phía bắc khi nhiều nhà văn, kiến trúc sư Đông La Mã được mời đến xây dựng các công trình ở Kiev, trong khi nhiều người Rus' Kiev trở thành lính đánh thuê phục vụ trong quân đội Đông La Mã, mà tinh hoa nhất là đội Ngự Lâm quân Varangia nổi tiếng.[79]

Tuy nhiên, ngay cả sau khi người Rus' cải sang đạo Ki-tô, quan hệ giữa hai bên cũng không diễn ra tôt đẹp cho lắm. Các cuộc xung đột nghiêm trọng nhất giữa hai cường quốc là cuộc chiến tranh 968-971 ở Bulgaria, một vài cuộc viễn chinh của người Rus' xuống miền nam nhằm cướp phá các thành phố Đông La Mã quanh vùng biển đen và Constantinopolis cũng được nhiều sử gia ghi nhận. Mặc dù hầu hết các cuộc tấn công bị đẩy lui, nhưng những điều ước song phương luôn có lợi cho người Rus', chẳng hạn như sau cuộc chiến tranh năm 1043, người Rus' đã cho thấy tham vọng cạnh tranh với Đế quốc Đông La Mã của mình.[81]

Đỉnh cao

Constantinopolis, thành phố lớn và giàu có nhất châu Âu trong suốt từ thế kỷ thứ VI đến thế kỷ XII.

Khi Basileos II băng hà năm 1025, biên cương đế quốc Đông La Mã đã trải dài từ Armenia ở phía đông cho tới tận Calabria ở miền nam Ý là biên giới phía tây.[72]. Các thành công liên tục được gặt hái, từ cuộc chinh phục Bulgaria, đến việc sáp nhập Georgia và Armenia vào đế quốc, và cả việc tái chiếm Crete, Síp và thành phố Antioch linh thiêng. Đây không phải là các thành công nhanh chóng, mà là cả một công cuộc tái chiếm lâu dài.[65]

Hệ thống pháp luật bằng tiếng Hy Lạp - bộ Pháp điển Dân sự - cuối cùng đã được hoàn thiện dưới thời Leon VI. Công trình đồ sộ gồm 60 bộ này đã trở thành nền tảng pháp luật của Đông La Mã và vẫn còn được nghiên cứu đến tận ngày nay.[82] Hệ thống hành chính của Đế quốc đã được điều chỉnh lại, phân giới kĩ hơn các khu bán quân sự thema, loại bỏ các bất cập trong quản lý các địa phương và đặc quyền của những quan lại cai trị các tỉnh xa, cũng như điều chỉnh những đặc quyền của các thương đoàn ở Constantinopolis. Sự tách biệt giữa các tỉnh của Đông La Mã không còn nữa, và Constantinopolis trở thành trung tâm quyền lực duy nhất của Đế quốc.[83] Tuy nhiên, các chiến thắng vang dội đã làm gia tăng đáng kể quyền lực của giới qúy tộc quân sự các tỉnh với nông dân, những người đã cơ bản trở thành nông nô cho các quý tộc.[84]

Tranh tường vẽ hai thánh Kyrillos và Methodios, thế kỷ XIX, Tu viện Troyan, Bulgaria.

Dưới thời các hoàng đế Makedonia, Constantinopolis trở thành thành phố lớn nhất và giàu có nhất ở châu Âu, với 400.000 dân vào thế kỷ IX và X.[85] Các hoàng đế đã bổ nhiệm nhiều quý tộc tài năng vào làm quan trong triều đình, chủ yếu trong việc giám sát thu thuế, quản lý thành phố và trở thành các đại sứ ngoại giao. Thương mại với Tây Âu cũng được thúc đẩy mạnh mẽ, đặc biệt là lụa và kim loại đã góp phần làm cho sự giàu có của Đế quốc.[86]

Triều đại Makedonia là thời gian có những chuyển biến tôn giáo quan trọng. Người Bulgaria, Serbia và Rus đã cải sang Chính thống giáo, làm thay đổi vĩnh viến bản đồ tôn giáo ở châu Âu tạo nhiều ảnh hưởng cho đến ngày nay. Các thánh Kyrillos và Methodios, hai người anh em ở Thessaloniki, đã đóng góp đáng kể trong việc người Xlavơ cải đạo sang Chính thống giáo và phát minh ra bảng chữ cái Glagolit, tiền thân của bảng chữ cái Kyrill.[87] Năm 1054, mâu thuẫn giữa thành Roma và thành Constantinopolis lên đến đỉnh điểm, mà lịch sử gọi đây là Đại Ly giáo Đông-Tây. Mặc dù trước đó cả hai đã tuyên bố rút phép thông công lẫn nhau nhưng phải tới ngày 16 tháng 7, khi ba hồng y của Giáo hoàng bước vào trong Đại thánh đường Thánh Sophia,[88] và đặt bức thư tuyệt thông lên bàn thờ Đức Chúa, cuộc ly giáo Đông-Tây mới chính thức bắt đầu.[89]

Triều đại Makedonia suy yếu

Đông La Mã suy sụp nhanh chóng sau khi hoàng đế Basileos II qua đời mà không có những người đủ năng lực lên kế vị. Nikephoros II (trị vì 963-969), Ioannes TzimiskesBasileos II thay đổi cơ cấu quân sự từ các đội quân phòng thủ, dân quân thành một đội quân chuyên nghiệp (τάγματα, tagmata), được hỗ trợ bằng lính đánh thuê. Trong thế kỷ thứ X, các cuộc tấn công liên tiếp của ngoại bang đã buộc đế quốc phải duy trì các khu đồn trú lớn và công sự tốn kém. Hoàng đế Basileos II để lại một kho bạc đầy ắp khi ông qua đời, nhưng lại không để lại bất kì lời khuyên nào cho người kế vị.[90] Không còn bất cứ vị vua nào kế tục ông mà có đủ tài năng quân sự cũng như tài cai trị, điều này khiến cho quyền lực dần dần rơi vào tay các quan lại trong triều. Những nỗ lực cứu vãn nền kinh tế cuối cùng chỉ dẫn đến lạm phát và tiền vàng mất giá. Lúc này, quân đội bị xem như là một khoản chi phí không cần thiết và còn là một mối đe dọa chính trị. Vì vậy, triều đình đã giải tán quân đội và thay thế bằng các đội lính đánh thuê với những hợp đồng cụ thể.[91]

Nhưng lúc này, kẻ thù mới đã xuất hiện. Các tỉnh ở Ý đã phải đối mặt với người Norman. Bước tiến của người Norman chậm nhưng chắc chắn. Reggio, thủ phủ của tỉnh Calabria, bị Robert Guiscard chiếm năm 1060, tiếp theo đó là Otranto năm 1068.[92] Bari, thành trì quan trọng ở tỉnh Apulia, bị bao vây từ tháng 8 năm 1068 và thất thủ vào tháng 4 năm 1071. Đồng thời Đông La Mã cũng mất quyền kiểm soát bờ biển Damaltia vào tay vua Peter Krešimir IV (1058–1074/1075) của người Croatia trong năm 1069.[93]

Nhưng thảm họa lớn nhất lại xảy ra ở Tiểu Á. Các cuộc tấn công đầu tiên của người Thổ Seljuk vào biên giới của Đông La Mã thông qua Armenia xảy ra trong những năm 1065 và 1067. Nhân lúc tình hình rối loạn, các quý tộc quân sự ở Anatolia đã đưa Romanos Diogenes, một người trong số họ lên ngôi hoàng đế. Mùa hè năm 1071, Romanos ra lệnh khẩn cấp điều động các quý tộc Anatolia và lực lượng của họ, rồi thân chinh chỉ huy chiến dịch phản công quân Seljuk. Trong trận Manzikert, quân Đông La Mã không chỉ đại bại trước Sultan Alp Arslan mà tổng chỉ huy của họ, hoàng đế Romanos cũng bị bắt sống.[91] Arslan đối xử với Romanos rất đúng mực và không áp đặt các điều kiện nặng nề lên Đế Chế. Tại Constantinopolis, một cuộc đảo chính ủng hộ Michael Doukas đã diễn ra. Tới năm 1081, người Seljuk đánh chiếm hầu hết cao nguyên Anatolia, từ Armenia ở phía đông cho tới Bithynia ở phía tây và thiết lập kinh đô ở Nicaea, chỉ cách Constantinopolis 90 km.[94]

Nhà Komnenos và Thập Tự Quân

Alexios I, người sáng lập Nhà Komnenos.

Nhà Komnenos cai trị Đế quốc Đông La Mã trong những năm 1081 tới năm 1185. 104 năm tồn tại, với năm hoàng đế (Alexios I, Ioannes II, Manouēl I, Alexios II và Andronikos I), Đông La Mã đã được phục hồi lại phần nào sức mạnh, lãnh thổ, kinh tế dù không được hoàn toàn.[95] Mặc dù người Seljuk chiếm đóng cao nguyên Anatolia nhưng họ sớm bị đẩy lùi khi Đông La Mã nhận được sự hỗ trợ từ các quốc gia Tây Âu, đặc biệt từ người Norman.[95] Nhà Komnenos góp một phần không nhỏ cho công cuộc Thập Tự Chinh ở Đất Thánh. Quan hệ giữa nhà Komnenos với các quốc gia phương Tây cải thiện rõ rệt, bao gồm cả quan hệ với các quốc gia thập tự quân ở Levant. Ảnh hưởng của Đế quốc đã tăng mạnh ở châu Âu, Tiểu Á và các vùng đất xung quanh Địa Trung Hải. Có tới hơn 60.000 người Venezia và Ý đã chuyển tới sống ở Constantinopolis, và nhiều người trong số họ trở thành lính đánh thuê La Tinh cho Đế quốc. Nhờ có nhiều người nước ngoài tới sống trong đế quốc, mà văn hóa và nghệ thuật của Đông La Mã đã được truyền bá rộng rãi, và cũng thúc đẩy luồng văn hóa và tư tưởng của phương tây du nhập vào đế chế.[96] Thời kỳ Komnenos đã trở thành một trong những giai đoạn đỉnh cao của Đông La Mã[97], và Constantinopolis vẫn giữ vị trí hàng đầu về sự giàu có, hoa lệ, đông đúc và văn hóa nhất thế giới Kitô Giáo.[98] Các quan tâm lớn tới triết học cổ điển của Đông La Mã, và các tác phẩm Hi Lạp được truyền bá rộng rãi sang phía tây đã biến Đông La Mã trở thành một trong những nơi văn hiến nhất châu Âu[99] và có ảnh hưởng lâu dài tới các vùng đất phía tây.[100]

Alexios I và cuộc Thập tự chinh lần thứ nhất

Sau thất bại ở Manzikert, đế quốc đã phần nào khôi phục lại vinh quang nhờ những nỗ lực của các hoàng đế nhà Komnenos.[101] Ngay khi vừa lên ngôi, Alexios I đã phải đối phó với một cuộc xâm lược như vũ bão của người Norman được lãnh đạo bởi Robert Guiscard và con trai ông ta, Bohemund xứ Taranto, người đã chiếm DyrrhachiumCorfu, và bao vây thành LarissaThessaly. Cái chết của Robert Guiscard vào năm 1085 đã tạm thời đẩy lùi cuộc xâm lăng của người Norman. Năm sau, Sultan Seljuk qua đời, Vương quốc Hồi Giáo Rum lâm vào nội chiến tranh giành quyền lực giữa các phe phái. Bằng sự nhạy bén và tài cầm quân, Alexios đã tiến hành chiến dịch tấn công bất ngờ vào quân Pecheneg; bị bất ngờ, quân Pecheneg thảm bại tại trận Levounion vào ngày 28 Tháng Tư 1091.[102]

Đế Chế Đông La Mã và Vương Quốc Hồi Giáo Rum trước cuộc Thập tự chinh đầu tiên.

Chiến thắng trong trận Levounion, cho phép Alexios có thể củng cố được sự ổn định ở châu Âu và hướng sự quan tâm chú ý tới vấn đề khó khăn kinh tế và sự yếu kém của các hàng phòng thủ quanh Constantinopolis.[103] Nhưng ông không có đủ nhân lực để tái chiếm lại các vùng bị mất ở Tiểu Á và đẩy lùi quân Seljuk, ngoại trừ khu vực màu mỡ dọc bờ biển phía tây Tiểu Á. Tại Hội đồng Piacenza năm 1095, phái viên của Alexios đã trình bày với Giáo hoàng Urban II về sự áp bức mà người Kito Giáo ở phía đông phải chịu đựng, và nhấn mạnh rằng nếu phương tây không can thiệp, có thể họ sẽ phải chịu như vậy mãi mãi. Urban II thấy lời đề nghị của Alexios là cơ hội tốt để nối lại sự gắn kết giữa hai giáo hội dưới sự lãnh đạo của mình.[104] Ngày 27 tháng 11 năm 1095, Giáo hoàng Urban II cùng với Hội đồng Clermont đã kêu gọi mọi người hãy cầm vũ khí đi dưới lá cờ chữ thập và tiến hành một cuộc viễn chinh giành lại JerusalemLevant từ tay người Hồi Giáo. Lời kêu gọi đó được cả Tây Âu hưởng ứng ngay tức khắc.[102]

Alexios đã cho rằng Tây Âu sẽ hỗ trợ cho ông những đội lính đánh thuê, vì thế ông không hoàn toàn không ngờ rằng phải chuẩn bị cho một đội quân đông đảo vô tổ chức đang nhanh chóng tiến vào lãnh thổ Đông La Mã. Đồng thời, ông hoàn toàn không hài lòng khi biết tin một nửa các tướng lĩnh quân Thập Tự là người Norman, trong đó có cả Bohemund. Mặc dù vậy, Alexios vẫn kiểm soát được phần nào đội quân thập tự đó khi họ hành quân qua Constantinopolis để tới Tiểu Á và buộc các chỉ huy quân thập tự phải thề ràng buộc với đế chế, mọi lãnh thổ trước đây của Đông La Mã bị người Seljuk chiếm phải được trao trả lại cho đế quốc, đổi lại ông sẽ cử các hướng dẫn viên đi cùng họ và hộ tống họ qua eo biển Bosphorus an toàn.[105] Nhờ bước tiến của quân Thập Tự, Alexios đã đánh chiếm lại nhiều thành phố quan trọng ở Anatolia. Nhưng mối ràng buộc đó đã kết thúc khi các chỉ huy cho rằng ông không giúp đỡ họ trong cuộc bao vây Antioch (thực ra Alexios đã dẫn quân đến Antioch nhưng khi có tin báo về việc quân Seljuk chắn đường, ông nhanh chóng rút lui để tránh mạo hiểm không cần thiết).[106] Bohemund, người đã tự coi mình như Hoàng thân xứ Antioch, một thời gian ngắn đã đi đến chiến tranh với Đông La Mã, nhưng đã đồng ý trở thành chư hầu của Alexios bằng Hiệp ước Devol 1108, đánh dấu sự kết thúc của mối đe dọa Norman trong suốt triều đại của Alexios.[107]

Ioannes II, Manouel I và Cuộc thập tự chinh lần thứ hai

Bức tranh thời Trung Cổ vẽ cảnh quân Thập tự chiếm thành Jerusalem trong cuộc thập tự chinh lần thứ nhất.

Alexios I qua đời năm 1118, con trai ông, Ioannes II Komnenos lên kế vị và cai trị đế quốc cho tới năm 1143. Ông vốn là một vị hoàng đế nhân từ và luôn nhận thức rõ hiểm họa của đế quốc sau trận Manzikert nửa thế kỷ trước.[108] Được lòng dân bởi chính sách khoan dung và các hình phạt được giảm nhẹ, ông được coi là một trong những nhà cai trị nhân từ hiếm hoi trong một thời kì mà sự tàn ác là tiêu chuẩn chính.[109] Nhờ đó mà ông được coi là Marcus Aurelius của Đông La Mã.

Trong 25 năm của triều đại mình, Ioannes đã củng cố mối liên minh với Đế chế La Mã thần thánh ở Tây Âu, đánh bại hoàn toàn người Pechenegstrận Beroia,[110] và nhiều lần thân chinh đem quân đi chinh phạt người Thổ ở Tiểu Á. Các chiến dịch mà ông phát động đã làm thay đổi cán cân quyền lực ở phương đông, buộc người Thổ phải lui về phòng thủ và khôi phục lại nhiều thành trì, thành phố và thị trấn ở Anatolia.[111] Ông cũng đẩy lùi người Hunggary và Serbia vào những năm 1120, cùng với hoàng đế Đức Lothair III liên minh chống lại vua Norman, Roger II của Sicilia.[112] Ổn định được phía tây, Ioannes hướng sự chú ý của ông về phía đông. Các tiểu vương quốc của người Thổ DanishmendMelitene nhanh chóng bị đánh bại, và quân Đông La Mã tái chiếm lại Cilicia. Ioannes cũng tranh thủ dùng ảnh hưởng của mình ép buộc Raymond xứ Poitiers, Hoàng thân xứ Antioch thừa nhận sự bảo hộ của Đông La Mã. Nhằm thể hiện vai trò và sức mạnh của mình trong thế giới Ki-tô giáo, Ioannes dẫn quân vào Đất Thánh với tư cách là người lãnh đạo của liên quân của Đế chế với các quốc gia Thập Tự; tuy nhiên hy vọng của ông đã tan thành mây khói bởi sự phản bội của các đồng minh Thập Tự.[113] Năm 1142, Ioannes lại đặt vấn đề về chủ quyền của ông ở Antioch, nhưng cái chết đột ngột của ông trong một tai nạn lúc đi săn vào năm 1143 đã làm gián đoạn kế hoạch của Ioannes. Chụp lấy cơ hội này, Raymond xua quân xâm lược Cilicia nhưng bị đánh tan tác và buộc phải thân hành đến kinh đô Constantinopolis để cầu xin sự tha thứ.[114]

Đế quốc Đông La Mã vào năm 1180, cuối thời kỳ Phục Hưng Komnenos.

Người kế vị Ioannes là Manouel I Komnenos, con trai thứ tư của ông. Manouel đã thi thành một chính sách bành trướng mạnh mẽ đối với các thế lực lân bang, kể cả phía đông lẫn phía tây. Tại Palestine, ông liên minh với Vương quốc Jerusalem và gửi một hạm đội lớn gia nhập liên quân Thập Tự trong cuộc chiến tranh chống lại Nhà Fatimid của Ai Cập. Manouel đã củng cố địa vị thống trị của mình đối với khối các quốc gia Thập Tự, và ảnh hưởng của Đông La Mã đối với Antioch và Jerusalem được củng cố bằng hiệp ước với Raynald, Hoàng thân Antioch, và Amalric, vua Jerusalem.[115] Manouel cũng thực hiện một cuộc viễn chinh nhằm thu hồi lại lãnh thổ của đế quốc tại miền Nam Ý nhưng thất bại do các bất đồng giữa Đông La Mã với các đồng minh của mình. Năm 1167, Manouel xua quân xâm lược Vương quốc Hungary và đánh tan tác quân Hung trong trận Sirmium, buộc người Hung phải cắt đất cầu hòa và trở thành chư hầu của Đông La Mã. Đến năm 1168, gần như toàn bộ vùng duyên hải biển Adriatic đã nằm dưới quyền kiểm soát của Đông La Mã.[116] Manouel cũng thiết lập liên minh với Giáo hoàng La Mã và các quốc gia Công giáo Tây Âu, và thành công trong việc điều tiết các hoạt động của đoàn quân Thập Tự lần thứ hai khi họ hành quân qua lãnh thổ Đông La Mã.[117]

Tuy nhiên, ở mặt trận phía đông, Manouel đã nhận phải một thất bại nặng trong trận Myriokephalon trước quân Thổ vào năm 1176. Thất bại này đã làm ông đau buồn và sức khỏe suy sụp vào những năm cuối đời, nhưng thực tế không ảnh hưởng nhiều đến sức mạnh quân sự của Đông La Mã. Trong những năm sau đó người Đông La Mã đã rửa được thù và đánh bại người Thổ.[118] Tướng quân Ioannes Vatatzes, người đánh tan tác quân Thổ trong Trận Hyelion và Leimocheir, không chỉ trưng tập được binh lực từ kinh đô mà còn tìm được cách thu thập thêm binh lính trên đường hành quân, một dấu hiệu cho thấy Đông La Mã vẫn còn là một thế lực quân sự mạnh mẽ và chương trình phòng thủ tại Tiểu Á vẫn còn hiệu quả.[119]

Thời kì Phục Hưng thế kỷ XII

Ioannes và Manuel đã theo đuổi những chính sách quân sự thiết thực, và cả hai đều đã triển khai được những nguồn lực đáng kể trong việc bao vây và phòng thủ các thành phố. Bất chấp việc bại trận tại Myriokephalon, các chính sách của Alexios, Ioannes và Manuel đã đem lại kết quả đó là những vùng lãnh thổ rộng lớn, tăng sự ổn định cho khu vực biên giới ở Tiểu Á, và bảo đảm sự ổn định cho khu vực biên giới châu Âu của đế quốc. Từ khoảng năm 1081 đến khoảng năm 1180, quân đội nhà Komnenos đã giữ vững được sự ổn định của đế quốc, cho phép nền văn minh Đông La Mã phát triển rực rỡ.[120]

Điều này đã cho phép các tỉnh phía tây đạt được sự phục hồi kinh tế và vẫn tiếp tục cho đến khi cuối thế kỷ. Có lập luận cho rằng Byzantium dưới sự cai trị của nhà Komnenos đã thịnh vượng hơn so với chính nó ở bất kỳ thời điểm nào kể từ lúc người Ba Tư tiến hành các cuộc xâm lược vào thế kỷ thứ VII. Trong thế kỷ XII, mật độ dân cư gia đã tăng lên và có thêm nhiều vùng đất rộng lớn được dành cho sản xuất nông nghiệp. Bằng chứng khảo cổ từ cả châu Âu và Tiểu Á cho thấy một sự gia tăng đáng kể về kích thước của các khu định cư đô thị, cùng với một sự bùng nổ đáng chú ý ở các thành thị mới. Thương mại cũng phát triển rực rỡ, người Venezia, Genova và các sắc dân khác đã đổ xô đến các hải cảng của biển Aegea để giao thương, vận chuyển hàng hóa từ các vương quốc Thập Tự Chinh ở hải ngoại và từ nhà Fatima ở Ai Cập tới phía tây và buôn bán với đế quốc thông qua Constantinopolis[121]

Suy sụp và tan rã

Nhà Angelos

Manuel mất vào ngày 24 tháng 9 năm 1180 để lại cậu con trai 11 tuổi của mình, Alexios II Komnenos trên ngai vàng.[122] Vị hoàng đế nhỏ tuổi chưa thể tự mình cai trị, chính vì vậy mà nữ hoàng Maria thành Antioch, nắm quyền nhiếp chính. Tuy nhiên, gốc gác người Pháp của bà lại khiến bà không được lòng dân, điều này đã tạo điều kiện cho Andronikos I Komnenos nổi loạn, ông vốn là một người cháu trai của Alexios I. Tháng 8 năm 1182, ông dẫn quân tiến vào Constantinopolis. Tháng 9 năm 1183, sau khi loại bỏ các đối thủ tiềm năng của mình, ông tự đăng quang hoàng đế và loại bỏ Alexios II, đồng thời lấy luôn người vợ cũ mới chỉ mười hai tuổi của ông ta, Agnes của Pháp.[123]

Andronikos bắt đầu triều đại của ông bằng các biện pháp cải cách chính phủ được các sử gia ca ngợi.[123] Theo George Ostrogorsky, Andronikos đã quyết tâm nhổ tận gốc tham nhũng: dưới sự cai trị của ông, việc mua bán quan tước bị loại bỏ, việc lựa chọn nhân lực phải dựa trên thành tích, chứ không phải là nhờ thiên vị và các mối quan hệ xã hội, các quan chức được trả lương hậu hĩnh để giảm thiểu hối lộ.[124] Tại các tỉnh, nhờ cải cách Andronikos mà sản xuất được cải thiện một cách nhanh chóng và rõ rệt. Các quý tộc đã tức giận chống lại ông ta, và để làm cho vấn đề đỡ tồi tệ hơn, Andronikos dường như đã trở thành một bạo chúa; hành quyết và bạo lực đã trở thành ngày càng phổ biến, và triều đại của ông trở thành một triều đại của khủng bố.[125] Andronikos dường như muốn tiêu diệt hết giới quý tộc và đại địa chủ. Cuộc chiến chống lại tầng lớp quý tộc trở thành một cuộc tàn sát, trong khi Hoàng đế phải viện đến các biện pháp tàn nhẫn hơn bao giờ hết để giữ vững chế độ của mình.[124]

Mặc dù có một lực lượng quân sự mạnh, Andronikos đã không thể đối phó với Isaac Komnenos, Béla III của Hungary(r. 1172-1196), người đã sáp nhập vùng lãnh thổ Croatia vào Hungary, và Stephen Nemanja của Serbia (r. 1166-1196) đã tuyên bố sự độc lập của mình với Đông La Mã. Tuy nhiên, không một ai có thể so sánh với cuộc xâm lăng của William II xứ Sicilia (r. 1166-1189) với một lực lượng gồm 300 tàu và 80.000 quân vào năm 1185.[126] Andronikos vội vàng huy động 100 tàu chiến bảo vệ thủ đô nhưng khác gì hơn là ông không hề quan tâm đến dân chúng. Cuối cùng ông bị lật đổ khi Isaac Angelos, một đối thủ chính trị của ông được sự trợ giúp của người dân đã tiến hành đảo chính và giết chết Andronikos. Nhà Komnenos đã kết thúc, nhường chỗ cho nhà Angelos lên thay.[127]

Triều đại của Isaac II và của anh trai Alexios III, là thời kì mà người ta nhìn thấy sự sụp đổ của những gì còn lại trong bộ máy triều đình trung ương của Đông La Mã và hệ thống quốc phòng. Mặc dù người Norman bị đánh đuổi ra khỏi Hy Lạp nhưng vào năm 1186, người Vlach và Bulgars bắt đầu một cuộc khởi nghĩa dẫn đến sự hình thành của Đế chế Bulgaria Thứ hai. Chính sách trong nước của nhà Angelos được đặc trưng bởi sự lạm dụng ngân khố quốc gia, và sự không minh bạch về tài chính của các quan lại. Triều đình bị suy yếu nghiêm trọng, và khoảng trống quyền lực ngày càng tăng ở trung tâm của Đế chế đã dẫn sự tách biệt ở các tỉnh xa kinh thành, và một số người thừa kế nhà Komnenos đã thiết lập được một nhà nước bán độc lập ở Trebizond từ trước năm 1204.[128] Theo Aleksandr Vasilyev, trong thời gian triều đại Angelos, Hy Lạp bị đẩy nhanh đến sự hủy hoại của một đế quốc đã bị suy yếu mà không có cách nào có thể vực dậy được.[129]

Cuộc thập tự chinh lần thứ tư

Vào năm 1198, Giáo hoàng Innocent III đã phát động một cuộc thập tự chinh mới.[130] Lần này, cuộc thập tự chinh hướng đến Ai Cập, trung tâm quyền lực mới của thế giới Hồi Giáo ở Levant. Quân Thập Tự đến thành Venezia vào mùa hè năm 1202 nhưng lại ít hơn so với dự đoán và họ cũng không đủ tiền trả cho việc thuê tàu của người Venezia, để đến Ai Cập. Tổng đốc đầy tham vọng của Venezia, Enrico Dandolo mong muốn phá vỡ sự liên kết giữa Giáo hoàng và quân thập tự, vì Venezia liên kết chặt chẽ thương mại với Ai Cập.[131] Vì thế, ông ta đề nghị trang trải chi phí thuê tàu cho quân thập tự đổi lại họ sẽ đánh chiếm lại cảng ZagaDamaltia(thành phố chư hầu của Venezia, mà trước đó đã nổi dậy rồi tự đặt nó dưới sự bảo trợ của Hungary),[132] quân viễn chinh đồng ý.[133] Thành phố thất thủ vào tháng 11 năm 1202 sau một cuộc bao vây nhanh chóng. Innocent và hội đồng hồng y nhắm mắt làm ngơ trước hành động này.[131]

Đông La Mã bị phân chia sau Cuộc thập tự chinh lần thứ tư,năm 1204.

Sau cái chết của Theobald III, Bá tước của Champagne, vai trò lãnh đạo cuộc Thập tự chinh đã chuyển sang cho Boniface Montferrat, một người bạn của Philip xứ Swabia. Cả Boniface và Philip đều kết hôn với hoàng gia Đông La Mã. Trên thực tế, người em vợ của Philip, Alexios Angelos, con trai của Hoàng đế Isaac II Angelos mù bị lật đổ, đã tới châu Âu và liên lạc với quân viễn chinh. Alexios đề nghị đoàn tụ nhà thờ Đông La Mã với Rôma, trả cho quân viễn chinh 200.000 đồng bạc, sẽ cùng tham gia cuộc thập tự chinh và cung cấp tất cả các nhu yếu phẩm họ cần để đến được Ai Cập. Innocent đã nhận thức kế hoạch đã chuyển hướng cuộc Thập tự chinh đến Constantinopolis nhưng cấm bất kỳ cuộc tấn công nào vào thành phố, song lá thư của Đức Giáo hoàng đã đến sau khi đội tàu đã rời Zara.[134]

Quân viễn chinh tới thành phố vào mùa hè năm 1203 và nhanh chóng tổ chức tấn công, khởi đầu bằng một đám cháy lớn gây hư hỏng phần lớn thành phố, và sau đó họ tràn vào thành phố. Alexios III chạy trốn khỏi thủ đô, và Alexios Angelos được tấn phong lên ngai vàng là Alexios IV cùng với người cha mù của mình làm đồng hoàng đế. Tuy nhiên, Alexios IV và Isaac II đã không thể giữ lời hứa của mình và đã bị lật đổ bởi Alexios V. Cuối cùng, quân viễn chinh tấn công thành phố lần thứ hai vào ngày 13 tháng 4 năm 1204 và Constantinopolis đã bị cướp bóc và tàn sát bởi quân thập tự. Nhiều biểu tượng vô giá, di vật, và các báu vật khác sau đó bị đem về Tây Âu, một số lượng lớn ở Venezia. Khi Innocent III nghe nói về việc quân viễn chinh cướp phá Constantinopolis, ông đã phạt vạ họ nhưng khá nhẹ nhàng. Tình hình đã ngoài kiểm soát. Trật tự chỉ được khôi phục khi quân viễn chinh và Venezia tiến hành thỏa thuận; Baldwin của Vlaanderen được bầu làm Hoàng đế và Thomas Morosini người Venezia được chọn làm Thượng Phụ.[131][135] Các nhà lãnh đạo thập tự chinh đã phân chia các tỉnh của Đông La Mã cho nhau, nhưng các hoàng thân Đông La Mã ở Nicaea, TrebizondEpirus đã giương cờ khởi binh nhằm khôi phục lại đô thành.[131]

Hồi kết của Đế quốc

Những lãnh thổ cuối cùng

Sau khi quân Thập Tự Chinh Latin cướp phá Constantinopolis năm 1204, hai lãnh địa trung thành với Đông La Mã là Đế quốc NicaeaLãnh địa Bá Vương Eripus đã giương cờ đứng lên khởi sự. Lãnh địa còn lại, Đế quốc Trebizond do Alexios I của Trebizond thành lập chỉ vài tuần trước khi quân thập tự cướp bóc Constantinopolis. Trong ba lãnh địa này, Eripus và Nicaea có cơ hội tốt nhất để khôi phục lại đô thành. Đế quốc Nicaea đã giành được nhiều chiến thắng trước quân Latin nhưng tới giữa thế kỷ XIII, nhiều vùng đất ở phía nam Anatolia của Đế quốc đã bị mất vào tay người Hồi Giáo.[136] Sự suy yếu của Vương quốc Hồi giáo Rum sau Cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ năm 1242-43 đã tạm thời chấm dứt các cuộc đột kích của quân Seljuk ở phía đông, giúp quân Nicaea dốc toàn lực quyết đấu với Đế chế La Tinh ở phía bắc.[137]

Tái chiếm Constantinopolis

Đông La Mã năm 1263.

Đế Chế Nicaea, được thành lập dưới triều đại Laskarid, đã tiến hành các cuộc chiến tranh với đế quốc Latin. Quân Nicaea đã đè bẹp quân Latin và đồng minh ở PoimanenonPelagonia. Constantinopolis được giành lại vào năm 1261 trong khi Epirus thất bại trong cuộc đua giành lại đô thành. Điều này dẫn đến một sự hồi sinh ngắn ngủi của Đông La Mã dưới thời Mikhael VIII Palaiologos, nhưng đế quốc chiến tranh đã bị tàn phá bởi những kẻ thù đang vây quanh đế quốc. Để duy trì các chiến dịch của mình chống lại quân Latin, Mikhael kéo quân từ Tiểu Á, và thu thuế thật nặng làm nông dân bị kiệt quệ, gây ra nhiều sự oán giận.[138] Dự án xây dựng khổng lồ đã được hoàn thành ở Constantinopolis để sửa chữa những thiệt hại của cuộc Thập tự chinh thứ tư, nhưng không ai trong số bất kỳ người nông dân nào ở Tiểu Á cảm thấy thích thú và đồng tình, khi mà các cuộc tấn công của ghazis cuồng tín thường xuyên xảy ra và sưu cao thuế nặng luôn đè nặng lên cổ họ.

Mikhael đã chọn cách mở rộng Đế Chế thay vì bảo vệ những lãnh địa của mình ở Tiểu Á, và chỉ đạt được thành công ít ỏi. Để tránh cho thủ đô khỏi bị người Latin cướp bóc và tấn công, ông buộc Giáo hội phải đến hội kiến ở Roma, một giải pháp tạm thời khiến cho giai cấp nông dân oán ghét Michael và Constantinopolis đến đỉnh điểm.[139] Các nỗ lực của Andronikos II và sau đó là của cháu trai Andronikos III được coi là những nỗ lực cuối cùng để khôi phục lại vinh quang cho đế quốc. Tuy nhiên, việc sử dụng lính đánh thuê của Andronikos II thường phản tác dụng với việc đám lính đánh thuê Catalan đang tàn phá các vùng nông thôn và tăng sự oán giận đối với Constantinopolis.[140]

Sự trỗi dậy của người Ottoman và những ngày cuối cùng của Đông La Mã

Cuộc bao vây Constantinopolis năm 1453.Đế quốc Đông La Mã vào năm 1403.

Đông La Mã đã bị tàn phá bởi nội chiến sau khi Andronikos III qua đời. Cuộc nội chiến kéo dài sáu năm không chỉ tàn phá đế quốc mà còn tạo điều kiện cho vua Serbia Stefan IV Dushan (1331–1346) xua quân tràn vào các lãnh thổ của Đế quốc và thiết lập cái gọi là Đế quốc Serbia trong một thời gian ngắn. Năm 1354, một trận động đất tại Gallipoli tàn phá các pháo đài, tạo điều kiện cho quân Ottoman (vốn được thuê làm lính đánh thuê trong cuộc nội chiến bởi Ioannes VI Kantakouzenos) hình thành thế lực của họ ở châu Âu.[141] Khi các cuộc nội chiến ở Đông La Mã chấm dứt thì cũng là lúc người Ottoman đánh bại các hiệp sĩ Serbia và bắt họ phải công nhân sự bảo hộ của Ottoman. Sau khi người Serbia thất bại ở trận Kosovo, phần lớn Balkan đã nằm dưới ách cai trị của Đế quốc Ottoman.[142]

Các hoàng đế Đông La Mã đã nhiều lần kêu gọi sự giúp đỡ của phương Tây, nhưng Đức Giáo hoàng tuyên bố sẽ chỉ xem xét việc gửi viện trợ trở lại nếu Giáo hội Chính Thống Đông hợp nhất trở lại với Giáo hội Công giáo Rôma. Việc thống nhất Giáo hội đã được xem xét, và thỉnh thoảng được thực hiện theo nghị định của đế quốc, nhưng người dân và giáo sĩ Chính thống giáo đã mạnh mẽ phản đối vì những hành động mà quân Thập tự đã làm năm 1204.[143] Mặc dù một số binh sĩ phương Tây đã đến để củng cố phòng thủ của Constantinopolis, nhưng hầu hết các nhà lãnh đạo phương Tây, lại đang bị phân tâm bởi công việc của mình, đã không có bất kì hành động nào khi người Ottoman đánh chiếm các vùng lãnh thổ còn lại cuối cùng của Đông La Mã. Năm 1422, quân Ottoman bao vây Constantinopolis nhưng không thành công, song họ đã chiếm được hoàn toàn xứ Makedonia và thành Thessalonica.[144]

Constantinopolis lúc này chỉ còn là một đống đổ nát và hoang tàn, dân số đã sụt giảm nghiêm trọng. Ngày 2 tháng 4 năm 1453, Sultan Mehmed đem 80.000 quân và hàng trăm ngàn quân không chính quy bao vây thành phố.[145] Mặc cho 7000 quân Đông La Mã và 2000 quân Latin đồng minh đã cố gắng tử thủ đô thành, thành phố cuối cùng đã sụp đổ trước cuộc tấn công ồ ạt cuối cùng của quân Ottoman vào ngày 29 tháng 5 năm 1453, sau cuộc đại vây hãm kéo dài hai tháng liên tiếp.[144] Hoàng đế Đông La Mã cuối cùng, Konstantinos XI được nhìn thấy lần cuối cùng khi ông đang vứt áo hoàng bào của mình vào một góc tường rồi rút gươm ra lao thẳng vào quân địch sau khi chứng kiến các bức tường thành một thời vững chắc sụp đổ.[146]

Những diễn biến sau khi Đông La Mã diệt vong

Lãnh địa Bá vương Morea và Mystra vào năm 1450.

Sau khi kinh đô Constantinopolis sụp đổ, những lãnh thổ còn lại của Đông La Mã chưa bị chinh phục là Lãnh địa Bá vương Mystra - do hai người anh em của vị hoàng đế cuối cùng là Thomas PalaiologosDemetrios Palaiologos đồng cai trị. Lãnh địa này tiếp tục tồn tại dưới tư cách là chư hầu của đế quốc Osman, tuy nhiên do những yếu kém trong việc cai trị, hai anh em nhà Palaiologos không có đủ tài chính để chi trả các khoản cống phẩm cho người Osman và vì vậy vào tháng 5 năm 1460, vua Mehmet II đã xua quân tấn công lãnh thổ này và đến mùa hè đã xâm chiếm hết toàn bộ Mystra. Nhân cơ hội đó, Demetrios đã nhờ người Thổ Osman đánh đuổi em trai Thomas của mình ra khỏi Mystra, hy vọng có thể độc chiếm ngôi bá vương xứ này nhưng sau khi Thomas bỏ chạy thì người Thổ đã biến Mystra thành một tỉnh của đế quốc. Demetrios sống phần đời còn lại của mình dưới tư cách là sủng thần của Mehmet tại Edirne và sau đó là Didymoteicho.

Một số thành trì khác của đế quốc vẫn tồn tại một thời gian sau đó. Đảo Monemvasia không chịu đầu hàng người Thổ và tiếp tục tổ chức kháng chiến. Ban đầu nó được cai trị bởi một cướp biển người Aragón, sau ông này bị dân địa phương lật đổ và, dưới sự ưng thuận của Thomas Palaiologos, được đặt dưới quyền bảo hộ của Vatican cho đến hết năm 1460. Các bộ tộc địa phương ở Bán đảo Mani - một mỏm đất nằm ở cực Nam Mystra - cũng liên kết lại với nhau chống cự thêm một thời gian, sau trở thành một xứ bảo hộ của Cộng hòa Venezia và cuối cùng cũng thành một chư hầu của đế quốc Thổ Osman. Thành trì cuối cùng của Đông La Mã là Salmeniko nằm ở Tây Bắc Mystra. Graitzas Palaiologos là người lãnh đạo về quân sự tại đây, với tổng hành dinh đặt ở lâu đài Salmeniko. Khi thành phố đầu hàng trước người Osman, Graitzas và các thuộc hạ cùng một số cư dân vẫn tiếp tục chống giữ pháo đài Salmeniko cho đến khi họ đào tẩu sang Venezia vào tháng 7 năm 1461. Đến đây thì các tàn dư của Đông La Mã coi như đã bị tiêu diệt sạch.[147]

Đế quốc Trebizond, một phần lãnh thổ đã hoàn toàn tách biệt khỏi Đông La Mã từ hồi Constantinopolis bị quân Thập Tự Chinh đánh chiếm năm 1204, đã trở thành "phần cuối cùng" và là quốc gia kế thừa của Đông La Mã trên thực tế. Trong nỗ lực nhằm cứu vãn đế quốc, Hoàng đế David của Trebizond đã thực hiện nhiều hoạt động ngoại giao nhằm lôi kéo các quốc gia chống Osman về phía mình, nhưng việc này đã chọc tức người Thổ Osman và khiến một cuộc chiến tranh bùng nổ vào mùa hè năm 1461. Sau một tháng chống cự, David đầu hàng vào ngáy 14 tháng 8 năm 1461. Lãnh địa cuối cùng của đế quốc La Mã xưa kia biến mất khỏi bản đồ thế giới.

Người cháu gọi Konstantinos XI bằng chú, Andreas Palaeologos, tiếp tục tự xưng là người thừa kế danh hiệu hoàng đế Đông La Mã. Ông ta sống ở Mystra và chạy sang Roma khi khu vực này bị người Thổ đánh chiếm vào năm 1460, sống dưới sự bảo hộ của Vatican cho đến cuối đời. Do chức vị hoàng đế Đông La Mã về mặt nguyên tắc không hẳn là người trong họ tộc nối ngôi nhau, nên về nguyên tắc sự tự xưng của Andreas không hợp với luật pháp Đông La Mã. Nhưng lúc này đế quốc đã bị diệt vong và các quốc gia phương Tây đã căn cứ theo truyền thống cha truyền con nối để hợp pháp hóa danh xưng của Andreas. Andreas về sau đã tự đặt danh xưng "Hoàng đế của Constantinopolis" Imperator Constantinopolitanus cho mình và ngỏ ý bán chức vị Hoàng đế Đông La Mã cho vua Pháp Charles VIII cũng như các vua chúa Công giáo khác. Nhưng mãi sau khi Andreas qua đời cũng không ai nhận chức vị này cả.

Về phía người Thổ Osman, Mehmet II và các vua kế vị ông ta đã tự xưng là "Hoàng đế La Mã" (Kaysar-i-Rûm) và xem mình là người kế thừa Đế quốc La Mã xưa kia cho đến tận khi đế quốc Osman sụp đổ vào đầu thế kỷ XX. Điều này hàm ý là đế quốc La Mã vẫn được duy trì dưới sự cai trị của người Thổ, chỉ có điều tôn giáo chính thống của đế quốc sẽ thay đổi, giống như Constantinus I đã thay đổi tôn giáo của La Mã vào thế kỷ thứ IV. Trong khi đó, những lãnh đạo của lãnh địa Hoàng thân Danube (Principatele Dunărene) cũng tự xưng mình là người kế thừa của Đông La Mã[148] và đã bảo hộ cho những người dân Chính thống giáo chạy loạn trước sự xâm lược của Thổ Osman, trong đó bao gồm nhiều quý tộc Đông La Mã.

Đại Công tước Ivan III của Moskva về sau cũng tự xưng là người bảo hộ của Chính thống giáo Đông phương, một di sản của Đông La Mã. Ivan đã kết hôn với em gái của Andreas, Sophia Paleologue. Cháu của họ, Ivan IV Lôi đế, trở thành Sa hoàng đầu tiên của Nga (chữ "Sa hoàng" tsar hay czar bắt nguồn từ danh hiệu caesar, một tước hiệu của hoàng đế Đông La Mã trong ngôn ngữ Xlavơ). Các Nga hoàng sau Ivan IV cũng tiếp tục xem Đế quốc Nga là kẻ kế thừa của La Mã và Constantinopolis. Việc coi Đế quốc Nga là La Mã thứ ba tiếp tục tồn tại cho đến khi Đế quốc Nga sụp đổ trong cơn bão cách mạng năm 1917.[149]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đế_quốc_Đông_La_Mã http://www.roma.unisa.edu.au/07305/medmm.htm http://www.hls-dhs-dss.ch/textes/f/F029476.php http://concise.britannica.com/ebc/article-9383275/... http://www.britannica.com/eb/article-26400/history... http://findarticles.com/p/articles/mi_hb4706/is_19... http://books.google.com/?id=-4MeAAAAIAAJ http://books.google.com/?id=-90ewuAkZUsC http://books.google.com/?id=0_DfQgAACAAJ http://books.google.com/?id=0cWZvqp7q18C http://books.google.com/?id=1JgcAAAAMAAJ